Vòng xoáy suy giảm dân số tại Nhật Bản đang quay nhanh hơn khi số phụ nữ ở vào độ tuổi sinh đẻ ngày càng giảm.
Vào tháng 6/2014, Tomonaga Osada, một quan chức địa phương tại tỉnh Aichi, Nhật Bản đã đưa ra một ý tưởng vô cùng táo bạo. Osada gợi ý rằng các nhà chức trách có thể phân phối bao cao su bị làm thủng một cách bí mật cho các cặp vợ chồng trẻ, và như vậy tỷ lệ sinh sẽ tăng lên.
Ý tưởng có phần kỳ quặc này của Osada chỉ nhận được rất ít ý kiến ủng hộ, tuy nhiên nó phản ánh nỗi lo về tình trạng dân số của Nhật Bản. Vào năm 2013, chỉ hơn 1 triệu trẻ em được sinh ra, thấp hơn rất nhiều so với số lượng cần thiết để duy trì dân số, được dự kiến sẽ giảm từ 127 triệu người xuống còn khoảng 87 triệu người vào năm 2060. Tại sao những người trẻ tại Nhật Bản lại miễn cưỡng trong việc sinh con như vậy?
Vòng xoáy suy giảm dân số tại Nhật Bản đang quay nhanh hơn khi số phụ nữ ở vào độ tuổi sinh đẻ ngày càng giảm. Trong tháng 5/2014, một báo cáo đã dự đoán rằng đến năm 2040, sẽ có ít nhất 500 thị trấn trên khắp cả nước sẽ biến mất khi nhiều phụ nữ trẻ tuổi di cư đến các thành phố lớn.
Lực lượng lao động đã bắt đầu thu hẹp lại, làm giảm tăng trưởng trong tương lại. Trong những năm gần đây, chính phủ đã bắt tay vào thực hiện hàng loạt các đề án khuyến khích sinh đẻ, bao gồm cả phát hành cuốn “Cẩm nang phụ nữ” để giáo dục phụ nữ trẻ về các thời điểm dễ và khó mang thai trong thời kỳ sinh nở của họ. Chính phủ cũng tổ chức nhiều sự kiện mai mối để kết nối các cặp đôi với nhau.
Lý do chính dẫn đến tỷ lệ sinh của Nhật Bản ngày càng thấp là do tỷ lệ kết hôn của người dân nước này giảm dần theo từng năm. Ngày càng có ít người muốn kết hôn, và họ kết hôn ngày càng muộn hơn. Ít nhất một phần ba phụ nữ trẻ muốn trở thành những bà nội trợ toàn thời gian và vẫn đang tìm kiếm người đàn ông có đủ tiềm lực tài chính để gánh vác một gia đình truyền thống.
Trong những giai đoạn kinh tế ổn định hơn, những người ở trong độ tuổi kết hôn thường có việc làm ổn định trong hệ thống “việc làm trọn đời” đặc trưng của quốc gia Đông Á này. Giờ đây, nhiều người phải làm các công việc tạm thời hoặc bán thời gian khi nền kinh tế đang biến động theo từng ngày. Đối với phụ nữ Nhật Bản, họ từ chối hôn nhân và sinh con do văn hóa doanh nghiệp kiểu cũ của Nhật, trong khi dịch vụ chăm sóc trẻ em vẫn còn thiếu hụt buộc họ phải từ bỏ sự nghiệp của mình.
Cuối cùng, những người trẻ tuổi đang bị bó buộc với các quy chuẩn xã hội. Chỉ có khoảng 2% trẻ em được sinh ra mà cha mẹ của chúng không kết hôn (con số này ở hầu hết các nước phát triển là 30-50%). Điều này có nghĩa là khi tỷ lệ kết hôn giảm thì tỷ lệ sinh cũng giảm. Ngay cả đối với những người đã lập gia đình, chi phí nuôi dạy trẻ tăng cao cũng khiến nhiều bậc cha mẹ quyết định chỉ sinh một con.
Rất may là cho dù chính phủ khó có thể can thiệp trực tiếp vào việc tăng tỷ lệ sinh, chính sách thị trường lao động đang dần được cải cách hứa hẹn sẽ đem lại hiệu quả trong dài hạn. Nếu các công ty có nhiều chính sách ưu đãi hơn đối với các nhân viên trẻ, đồng thời giảm bớt đặc quyền của những người lao động khác, thì các cặp vợ chồng trẻ sẽ có một cơ sở ổn định hơn để kết hôn và xây dựng tổ ấm. Cho đến nay, chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe đã nhiều lần đưa vấn đề này ra bàn luận trong các chương trình nghị sự, song vẫn trì hoãn việc thực hiện chúng. Thay vào đó, ông Abe đang đưa ra các chính sách giúp phụ nữ vừa duy trì được sự nghiệp vừa có thể sinh con.
Nhiều nhà nhân khẩu học phải thừa nhận rằng, đã quá muộn để nâng tỷ lệ sinh của Nhật Bản, hiện đang ở mức 1,43 trẻ em/phụ nữ. Theo họ, chỉ còn một giải pháp cuối cùng, thậm chí còn gây sốc nhiều hơn cả việc bí mật đâm thủng bao cao su: đó là nhập cư trên quy mô lớn.
Ý tưởng có phần kỳ quặc này của Osada chỉ nhận được rất ít ý kiến ủng hộ, tuy nhiên nó phản ánh nỗi lo về tình trạng dân số của Nhật Bản. Vào năm 2013, chỉ hơn 1 triệu trẻ em được sinh ra, thấp hơn rất nhiều so với số lượng cần thiết để duy trì dân số, được dự kiến sẽ giảm từ 127 triệu người xuống còn khoảng 87 triệu người vào năm 2060. Tại sao những người trẻ tại Nhật Bản lại miễn cưỡng trong việc sinh con như vậy?
Vòng xoáy suy giảm dân số tại Nhật Bản đang quay nhanh hơn khi số phụ nữ ở vào độ tuổi sinh đẻ ngày càng giảm. Trong tháng 5/2014, một báo cáo đã dự đoán rằng đến năm 2040, sẽ có ít nhất 500 thị trấn trên khắp cả nước sẽ biến mất khi nhiều phụ nữ trẻ tuổi di cư đến các thành phố lớn.
Lực lượng lao động đã bắt đầu thu hẹp lại, làm giảm tăng trưởng trong tương lại. Trong những năm gần đây, chính phủ đã bắt tay vào thực hiện hàng loạt các đề án khuyến khích sinh đẻ, bao gồm cả phát hành cuốn “Cẩm nang phụ nữ” để giáo dục phụ nữ trẻ về các thời điểm dễ và khó mang thai trong thời kỳ sinh nở của họ. Chính phủ cũng tổ chức nhiều sự kiện mai mối để kết nối các cặp đôi với nhau.
Lý do chính dẫn đến tỷ lệ sinh của Nhật Bản ngày càng thấp là do tỷ lệ kết hôn của người dân nước này giảm dần theo từng năm. Ngày càng có ít người muốn kết hôn, và họ kết hôn ngày càng muộn hơn. Ít nhất một phần ba phụ nữ trẻ muốn trở thành những bà nội trợ toàn thời gian và vẫn đang tìm kiếm người đàn ông có đủ tiềm lực tài chính để gánh vác một gia đình truyền thống.
Trong những giai đoạn kinh tế ổn định hơn, những người ở trong độ tuổi kết hôn thường có việc làm ổn định trong hệ thống “việc làm trọn đời” đặc trưng của quốc gia Đông Á này. Giờ đây, nhiều người phải làm các công việc tạm thời hoặc bán thời gian khi nền kinh tế đang biến động theo từng ngày. Đối với phụ nữ Nhật Bản, họ từ chối hôn nhân và sinh con do văn hóa doanh nghiệp kiểu cũ của Nhật, trong khi dịch vụ chăm sóc trẻ em vẫn còn thiếu hụt buộc họ phải từ bỏ sự nghiệp của mình.
Cuối cùng, những người trẻ tuổi đang bị bó buộc với các quy chuẩn xã hội. Chỉ có khoảng 2% trẻ em được sinh ra mà cha mẹ của chúng không kết hôn (con số này ở hầu hết các nước phát triển là 30-50%). Điều này có nghĩa là khi tỷ lệ kết hôn giảm thì tỷ lệ sinh cũng giảm. Ngay cả đối với những người đã lập gia đình, chi phí nuôi dạy trẻ tăng cao cũng khiến nhiều bậc cha mẹ quyết định chỉ sinh một con.
Rất may là cho dù chính phủ khó có thể can thiệp trực tiếp vào việc tăng tỷ lệ sinh, chính sách thị trường lao động đang dần được cải cách hứa hẹn sẽ đem lại hiệu quả trong dài hạn. Nếu các công ty có nhiều chính sách ưu đãi hơn đối với các nhân viên trẻ, đồng thời giảm bớt đặc quyền của những người lao động khác, thì các cặp vợ chồng trẻ sẽ có một cơ sở ổn định hơn để kết hôn và xây dựng tổ ấm. Cho đến nay, chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe đã nhiều lần đưa vấn đề này ra bàn luận trong các chương trình nghị sự, song vẫn trì hoãn việc thực hiện chúng. Thay vào đó, ông Abe đang đưa ra các chính sách giúp phụ nữ vừa duy trì được sự nghiệp vừa có thể sinh con.
Nhiều nhà nhân khẩu học phải thừa nhận rằng, đã quá muộn để nâng tỷ lệ sinh của Nhật Bản, hiện đang ở mức 1,43 trẻ em/phụ nữ. Theo họ, chỉ còn một giải pháp cuối cùng, thậm chí còn gây sốc nhiều hơn cả việc bí mật đâm thủng bao cao su: đó là nhập cư trên quy mô lớn.
(Nguồn tổng hợp)