Ngày nay ở Nhật Bản người ta rất ít khi mặc kimono và yukata, nên cũng dễ hiểu khi giày dép cổ truyền như geta, zori và waraji cũng hiếm thấy. Nhưng chỉ khoảng 30 hay 40 năm về trước, người ta thường mang dép zori và guốc geta. Chúng ta sẽ điểm qua giày dép Nhật Bản, từ những kiểu cổ xưa cho đến những kiểu mới lạ và độc đáo phản ánh những quan điểm không thay đổi về những gì đáng để mang vào chân.
Tageta được dùng trên đồng ruộng cho đến sau thế chiến thứ 2. Loại này gọi là oashi.
Một bức tranh mộc bản điển hình cho thấy đời sống của dân thường khoảng sau năm 1750. Người phụ nữ trẻ xỏ đôi chân trần vào trong quốc geta, và cô hầu theo sau mang giày zori. Tranh này gọi là Ogi no Seiran(gió mát từ quạt gấp), trong loạt tranh Zashiki Hakkei của Suzuki Harunobu.
Giày dép cổ truyền ở Nhật Bản có hai nguồn gốc lịch sử chính. Một kiểu bắt nguồn từ miền nam Trung Quốc và Đông Nam Á, với đặc điểm là có 1 quai phía trước trên mặt đế dép. Bàn chân nằm dưới quai, còn ngón chân cái và ngón chân thứ hai kẹp lấy đầu quai. Kiểu dép mở trống này rất lý tưởng cho khihậu nóng và ẩm, giúp cho việc mang vào và cởi ra dễ dàng hơn. Kiểu còn lại xuất phát từ miền bắc Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Bàn chân gần như được che kín, gần giống như mang giày.
Trong suốt thời kỳ Yayoi khoảng 2.000 năm về trước đây, nông thôn Nhật mang tageta để chân khỏi lún vào bùn khi cấy lúa ngoài đồng. Tageta đượclàm bằng những miếng ván lớn hơn bàn chân, Những sơidậy để chân bám vào được xỏ qua những cái lỗ trên tấm ván. Người ta cho rằng tageta chính là nguồn gốc từ geta ( guốc gỗ), mà sau này được mang rất nhiều.
Giày được phát hiện trong những ngôi mộ từ thế kỷ thứ sáu của những người thuộc giai cấp thống trị. Những đôi giày này được phủ kim loại, theo kiểu ở bán đảo Triều Tiên, và chúng rất hoa mỹ, nên dĩ nhiên là không thể sử dụng chúng hàng ngày được. Sau đó, người ta cũng bắt đầu mang giày dành riêng cho các nghi lễ ở triều đình, tại chùa và các điện thờ Thần đạo. Thậm chí ngày nay, những bộ y phục truyền thống cho các thành viên của gia đình Hoàng tộc cũng bao gồm một đôi giày lộng lẫy được chạm khắc từ gỗ. Vào thời cổ đại, người ta cũng mang giày vải và giày da. Những đôi giày bện bằng rơm được nhập từ Trung Quốc vào khoảng thế kỷ thứ tám, chẳng bao lâu sau, chúng cũng đã phát triển thành giày rơm gọi là waraji, phù hợp với khí hậu và tập quán bỏ giày dép trước khi vào nhà của Nhật.
Fuka-gutsu: Giày ống làm bằng rơm lúa mạch bện. Được thiết kế để giữ chân cho ấm khi đi trên tuyết.
Ashinaka: Các ngón chân và gót lòi ra khỏi đế giày, giúp chân bám chắc hơn và thao tác dễ hơn.
Kanjiki: Mang bên dưới giày giúp không bị lún sâu vào tuyết.
Wara-zori: Qua nhiều thế kỷ, dép zori đã có nhiều kiểu dáng và được làm từ nhiều vật liệu khác nhau. Kiểu này có lẽ giống với kiểu nguyên thuỷ nhất.
Dép waraji được làm bằng rơm bện, Những quai rơm dài gắn trước đầu dép chạy vòng qua hai lỗ ở cạnh bàn chân và gót chân rồi được cột lại quanh mắt cá để giữ chạt đế dep với bàn chân. Waraji rất nhẹ, cho phép bước đi rất nhanh, và làm một đôi giày như thế này rất rẻ, nên ngày trước, những binh sĩ cấp thấp, nhân công xây dựng và tầng lớp bình dân thường mang chúng khi đi lại.
Dép rơm zori là một kiểu cải tiến của kiểu waraji, đây là loại được cho là nguồn gốc của loại dép đi biển cả thế giới đang dùng hiện nay. Nó có một quai và đế hình bầu dục, cả hai được làm tư rơm bện. Ngón chân cái và ngón chân thứ hai giữ lấy đầu quai. Một kiểu cải biên dùng cho binh lính thời trung cổ là kiểu dép khong gót ashinaka, được thiết kế để sử dụng trên chiến trừng. Dần dần, người ta bắt đầu mang dép zori để làm ruộng. Suốt thời Edo (1603-1867), những người làm dép zori đã mở cửa hàng ở những khu vực thành thị và đã nhanh chóng tạo ra nhiều kiểu dáng khác nhau. Một kiểu hiện nay được xem là kiểu đặc trưng của dép zori là dép setta - mặt trên cùng của đế có miếng vỏ tre đan, mặt dưới được bọc da, và gót được bọc kim loại. Những kiểu dép zori khác có hình dạng bắt mắt và kiểu thiết kế sang trọng.
Phần 2:
Guốc geta có một miếng đế bằng gỗ hình chữ nhật với hai miếng gỗ đỡ bên dưới và một cái quai ở bên trên. Các ngón chân giữ lấy phần trên của quai, cũng giống như khi mang zori. Những bức ảnh từ tận thế kỷ 18, đã có những công cụ tốt hơn để sản xuất guốc geta hàng loạt, và chúng trở nên thịnh hành ở thành phố Edo ( hiện nay là Tokyo). Chúng càng ngày càng trở nên cầu kỳ, kiến chính quyền Mạc phủ, vốn hay phạt những người bình dân có lối sống phô trương, cấm mang những guốc geta sơn mài. Cho đến khi giày trở nên thông dụng, geta là loại dép được ưa thích - mức sản xuất nam 1955 lên đến 93 triệu đôi, nhưng sau đó thì giảm dần.
Tabi giống như vớ, ngoại trừ việc chúng được thiết kế để đi chung với giày zori và waraji. Tabi giúp đỡ cho đôi chân ấm vào mùa đông và chống rộp ở những chỗ quai dép cọ vào chân. Loại "vớ" này rất độc đáo vì có một khe hở giữa ngón chân cái và ngón chân thứ hai, để hai ngón chân này có thể kẹp đầu quai dép.
Giày ống jika-tabi cũng có khe giống như tabi, nhưng có đế cao su để có thể mang đi ra ngoài mà không cần mang thêm thứ gì khác. Loại này được hai anh em trong gia đình Ishibashi, Tokujiro và Shojiro, phát minh vào năm 1922. Gia đình Ishibashi là nhà làm tabi, và công ty của họ đã phát triển thành công ty Bridgestone, nhà sản xuất vỏ xe nổi tiếng. Trận động đất ở Tokyo nam 1923 đã làm cho loại giày ống jika-tabi mới có một vai trò quan trọng trong nỗ lực xây dựng lại thành phố. Giày ống jika-tabi giúp người mang không bị trượt chân và khe chữ V phía trên giúp cho các ngón chân có thể bám chặt ở những chổ khó đi, đó cũng là lý do mà cho đến nay, nó vẫn được dùng tại những khu xây dựng ở Nhật Bản.
Nước Nhật hiện đại đã chấp nhận rất nhiều thói quen của Tây phương, và mỗi khi ra ngoài hầu như người ta chỉ mang giày, chứ không phải một loại giầy dép nào khác. Nhưng truyền thống không mang giày trong nhà thì vẫn được giữ, và điều này đã khiến cho loại dép uwabaki được sử dụng trong các trường học. Một số loại giày dép khác trong xã hội Nhật Bản hiện đại được thiết kế để tăng cường sức khoẻ. Và hai kiểu cổ là geta và zori đang xuất hiện trở lại, vì người ta cho rằng, nếu mang chúng mà không mang vớ sẽ giúp tăng cường tuần hoàn máu.
Những tập tục xã hội và khí hậu đã thúc đẩy sự tiến hoá về giày dép ở Nhật. Những kiểu điển hình này không hạn chế đôi chân. Chúng giúp đôi chân thoáng, cởi ra mang vào nhanh chóng, do đó 1 số còn được sử dụng tại Nhật.
Ippon-ha geta: Được các nhà sư khổ tu ở vùng núi mang cách đây khá lâu, và hiện nay thì một số đầu bếp sushi còn mang.
Asagutsu: Guốc được đẽo từ gỗ, sau đó được phủ sơn mài đen. Đôi này của 1 thầy tu Thần đạo mang hồi thế kỷ 19.
Tsuranuki: Giày lông các sứ quân thời trung cổ mang khi họ cưỡi ngựa ra chiến trường.
Sengai: Giày làm bằng tơ dệt, dành cho các cung nữ mang trong cung điện.
Setta: Phía trên của đế trước đây được làm bằng tre, nhưng hiện nay nó được làm bằng cùng 1 chất dùng để phủ chiếu tatami, giúp giữ chân được khô. Quai thường màu đen, mặc dù 1 vài kiểu gần đây có trang trí thêm kiểu mẫu.
Yaki-geta: Bề mặt được thui cháy, sau đó đánh bóng để che vết bẩn và giúp dễ bảo quản hơn
Một bức tranh mộc bản điển hình cho thấy đời sống của dân thường khoảng sau năm 1750. Người phụ nữ trẻ xỏ đôi chân trần vào trong quốc geta, và cô hầu theo sau mang giày zori. Tranh này gọi là Ogi no Seiran(gió mát từ quạt gấp), trong loạt tranh Zashiki Hakkei của Suzuki Harunobu.
Giày dép cổ truyền ở Nhật Bản có hai nguồn gốc lịch sử chính. Một kiểu bắt nguồn từ miền nam Trung Quốc và Đông Nam Á, với đặc điểm là có 1 quai phía trước trên mặt đế dép. Bàn chân nằm dưới quai, còn ngón chân cái và ngón chân thứ hai kẹp lấy đầu quai. Kiểu dép mở trống này rất lý tưởng cho khihậu nóng và ẩm, giúp cho việc mang vào và cởi ra dễ dàng hơn. Kiểu còn lại xuất phát từ miền bắc Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Bàn chân gần như được che kín, gần giống như mang giày.
Trong suốt thời kỳ Yayoi khoảng 2.000 năm về trước đây, nông thôn Nhật mang tageta để chân khỏi lún vào bùn khi cấy lúa ngoài đồng. Tageta đượclàm bằng những miếng ván lớn hơn bàn chân, Những sơidậy để chân bám vào được xỏ qua những cái lỗ trên tấm ván. Người ta cho rằng tageta chính là nguồn gốc từ geta ( guốc gỗ), mà sau này được mang rất nhiều.
Giày được phát hiện trong những ngôi mộ từ thế kỷ thứ sáu của những người thuộc giai cấp thống trị. Những đôi giày này được phủ kim loại, theo kiểu ở bán đảo Triều Tiên, và chúng rất hoa mỹ, nên dĩ nhiên là không thể sử dụng chúng hàng ngày được. Sau đó, người ta cũng bắt đầu mang giày dành riêng cho các nghi lễ ở triều đình, tại chùa và các điện thờ Thần đạo. Thậm chí ngày nay, những bộ y phục truyền thống cho các thành viên của gia đình Hoàng tộc cũng bao gồm một đôi giày lộng lẫy được chạm khắc từ gỗ. Vào thời cổ đại, người ta cũng mang giày vải và giày da. Những đôi giày bện bằng rơm được nhập từ Trung Quốc vào khoảng thế kỷ thứ tám, chẳng bao lâu sau, chúng cũng đã phát triển thành giày rơm gọi là waraji, phù hợp với khí hậu và tập quán bỏ giày dép trước khi vào nhà của Nhật.
Fuka-gutsu: Giày ống làm bằng rơm lúa mạch bện. Được thiết kế để giữ chân cho ấm khi đi trên tuyết.
Ashinaka: Các ngón chân và gót lòi ra khỏi đế giày, giúp chân bám chắc hơn và thao tác dễ hơn.
Kanjiki: Mang bên dưới giày giúp không bị lún sâu vào tuyết.
Wara-zori: Qua nhiều thế kỷ, dép zori đã có nhiều kiểu dáng và được làm từ nhiều vật liệu khác nhau. Kiểu này có lẽ giống với kiểu nguyên thuỷ nhất.
Dép waraji được làm bằng rơm bện, Những quai rơm dài gắn trước đầu dép chạy vòng qua hai lỗ ở cạnh bàn chân và gót chân rồi được cột lại quanh mắt cá để giữ chạt đế dep với bàn chân. Waraji rất nhẹ, cho phép bước đi rất nhanh, và làm một đôi giày như thế này rất rẻ, nên ngày trước, những binh sĩ cấp thấp, nhân công xây dựng và tầng lớp bình dân thường mang chúng khi đi lại.
Dép rơm zori là một kiểu cải tiến của kiểu waraji, đây là loại được cho là nguồn gốc của loại dép đi biển cả thế giới đang dùng hiện nay. Nó có một quai và đế hình bầu dục, cả hai được làm tư rơm bện. Ngón chân cái và ngón chân thứ hai giữ lấy đầu quai. Một kiểu cải biên dùng cho binh lính thời trung cổ là kiểu dép khong gót ashinaka, được thiết kế để sử dụng trên chiến trừng. Dần dần, người ta bắt đầu mang dép zori để làm ruộng. Suốt thời Edo (1603-1867), những người làm dép zori đã mở cửa hàng ở những khu vực thành thị và đã nhanh chóng tạo ra nhiều kiểu dáng khác nhau. Một kiểu hiện nay được xem là kiểu đặc trưng của dép zori là dép setta - mặt trên cùng của đế có miếng vỏ tre đan, mặt dưới được bọc da, và gót được bọc kim loại. Những kiểu dép zori khác có hình dạng bắt mắt và kiểu thiết kế sang trọng.
Phần 2:
Guốc geta có một miếng đế bằng gỗ hình chữ nhật với hai miếng gỗ đỡ bên dưới và một cái quai ở bên trên. Các ngón chân giữ lấy phần trên của quai, cũng giống như khi mang zori. Những bức ảnh từ tận thế kỷ 18, đã có những công cụ tốt hơn để sản xuất guốc geta hàng loạt, và chúng trở nên thịnh hành ở thành phố Edo ( hiện nay là Tokyo). Chúng càng ngày càng trở nên cầu kỳ, kiến chính quyền Mạc phủ, vốn hay phạt những người bình dân có lối sống phô trương, cấm mang những guốc geta sơn mài. Cho đến khi giày trở nên thông dụng, geta là loại dép được ưa thích - mức sản xuất nam 1955 lên đến 93 triệu đôi, nhưng sau đó thì giảm dần.
Tabi giống như vớ, ngoại trừ việc chúng được thiết kế để đi chung với giày zori và waraji. Tabi giúp đỡ cho đôi chân ấm vào mùa đông và chống rộp ở những chỗ quai dép cọ vào chân. Loại "vớ" này rất độc đáo vì có một khe hở giữa ngón chân cái và ngón chân thứ hai, để hai ngón chân này có thể kẹp đầu quai dép.
Giày ống jika-tabi cũng có khe giống như tabi, nhưng có đế cao su để có thể mang đi ra ngoài mà không cần mang thêm thứ gì khác. Loại này được hai anh em trong gia đình Ishibashi, Tokujiro và Shojiro, phát minh vào năm 1922. Gia đình Ishibashi là nhà làm tabi, và công ty của họ đã phát triển thành công ty Bridgestone, nhà sản xuất vỏ xe nổi tiếng. Trận động đất ở Tokyo nam 1923 đã làm cho loại giày ống jika-tabi mới có một vai trò quan trọng trong nỗ lực xây dựng lại thành phố. Giày ống jika-tabi giúp người mang không bị trượt chân và khe chữ V phía trên giúp cho các ngón chân có thể bám chặt ở những chổ khó đi, đó cũng là lý do mà cho đến nay, nó vẫn được dùng tại những khu xây dựng ở Nhật Bản.
Nước Nhật hiện đại đã chấp nhận rất nhiều thói quen của Tây phương, và mỗi khi ra ngoài hầu như người ta chỉ mang giày, chứ không phải một loại giầy dép nào khác. Nhưng truyền thống không mang giày trong nhà thì vẫn được giữ, và điều này đã khiến cho loại dép uwabaki được sử dụng trong các trường học. Một số loại giày dép khác trong xã hội Nhật Bản hiện đại được thiết kế để tăng cường sức khoẻ. Và hai kiểu cổ là geta và zori đang xuất hiện trở lại, vì người ta cho rằng, nếu mang chúng mà không mang vớ sẽ giúp tăng cường tuần hoàn máu.
Những tập tục xã hội và khí hậu đã thúc đẩy sự tiến hoá về giày dép ở Nhật. Những kiểu điển hình này không hạn chế đôi chân. Chúng giúp đôi chân thoáng, cởi ra mang vào nhanh chóng, do đó 1 số còn được sử dụng tại Nhật.
Ippon-ha geta: Được các nhà sư khổ tu ở vùng núi mang cách đây khá lâu, và hiện nay thì một số đầu bếp sushi còn mang.
Asagutsu: Guốc được đẽo từ gỗ, sau đó được phủ sơn mài đen. Đôi này của 1 thầy tu Thần đạo mang hồi thế kỷ 19.
Tsuranuki: Giày lông các sứ quân thời trung cổ mang khi họ cưỡi ngựa ra chiến trường.
Sengai: Giày làm bằng tơ dệt, dành cho các cung nữ mang trong cung điện.
Setta: Phía trên của đế trước đây được làm bằng tre, nhưng hiện nay nó được làm bằng cùng 1 chất dùng để phủ chiếu tatami, giúp giữ chân được khô. Quai thường màu đen, mặc dù 1 vài kiểu gần đây có trang trí thêm kiểu mẫu.
Yaki-geta: Bề mặt được thui cháy, sau đó đánh bóng để che vết bẩn và giúp dễ bảo quản hơn
(Nguồn tổng hợp)